Lịch sử NATO

Tây Đức gia nhập NATO vào năm 1955, dẫn đến sự hình thành Hiệp ước Warsaw, đối thủ của NATO trong Chiến tranh Lạnh. Bộ chỉ huy đồng minh châu Âu (Tổng hành dinh tối cao của NATO)

Hiệp ước Brussels là một hiệp ước bảo vệ lẫn nhau giữa các nước Tây Âu để chống lại mối đe dọa ngày càng tăng từ Liên Xô vào đầu Chiến tranh Lạnh. Nó được ký kết vào ngày 17 tháng 3 năm 1948 bởi Bỉ, Hà Lan, Luxembourg, PhápVương quốc Anh. Đó là tiền thân của NATO. Mối đe dọa từ Liên Xô trở nên thực sự đáng lo ngại sau vụ phong tỏa Berlin năm 1948, dẫn đến việc thành lập một tổ chức quốc phòng đa quốc gia giữa các nước Tây Âu, Tổ chức Quốc phòng Liên hiệp Phương Tây, vào tháng 9 năm 1948. Tuy nhiên, các nước thành viên của tổ chức lúc đó quá yếu về quân sự để có thể chống lại lực lượng vũ trang của Liên Xô. Bên cạnh đó, tại Tiệp Khắc vào năm 1948 một cuộc đảo chính của những người cộng sản đã diễn ra thành công và Ngoại trưởng Anh Ernest Bevin tin rằng cách tốt nhất để ngăn chặn các quốc gia khác rơi vào tình trạng như Tiệp Khắc đó là phát triển một chiến lược quân sự giữa các nước phương Tây. Ông có một buổi điều trần tiếp nhận tại Hoa Kỳ, đặc biệt là xem xét sự lo lắng của Mỹ đối với Ý (và Đảng Cộng sản Ý)[4]

Năm 1948, các nhà lãnh đạo châu Âu đã gặp các quan chức quốc phòng, quân sự và ngoại giao Mỹ tại Lầu Năm Góc, dưới sự chủ trì của Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ George C. Marshall để đàm phán về một liên minh quân sự mới giữa các nước Phương Tây. Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương, được ký bởi Tổng thống Mỹ Harry S. Truman tại Washington vào ngày 4 tháng 4 năm 1949, đánh dấu sự ra đời của NATO. Vào ngày mới được thành lập, NATO bao gồm năm quốc gia thuộc Hiệp ước Brussels cộng với Hoa Kỳ, Canada, Bồ Đào Nha, Ý, Na Uy, Đan MạchIceland [5].

Các thành viên tham gia Hiệp ước cam kết rằng bất cứ cuộc tấn công vũ trang nào chống lại một trong số họ ở châu Âu hoặc Bắc Mỹ sẽ được coi là một cuộc tấn công chống lại tất cả các thành viên còn lại trong khối. Do đó, họ thỏa thuận với nhau rằng, nếu một cuộc tấn công vũ trang xảy ra, tất cả các nước thành viên còn lại, sẽ có trách nhiệm giúp đỡ thành viên bị tấn công, bao gồm cả việc sử dụng vũ trang, để khôi phục và duy trì an ninh của khu vực Bắc Đại Tây Dương.

Sự ổn định chính trị đã dần dần khôi phục nền kinh tế Tây Âu và sự tăng trưởng kinh tế thần kỳ sau chiến tranh đã bắt đầu. Những năm tiếp theo, NATO đã có thêm những thành viên mới: Hy LạpThổ Nhĩ Kỳ vào năm 1952, và Tây Đức vào năm 1955. Để phản ứng trước sự gia nhập NATO của Tây Đức, Liên bang Xô viết và các quốc gia Đông Âu vệ tinh đã thành lập Tổ chức Hiệp ước Warsaw năm 1955. Chiến tranh Lạnh bao trùm toàn Châu Âu.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: NATO http://archives.cbc.ca/IDD-1-71-1538/conflict_war/... http://www.army-technology.com/contractors/missile... http://www.cnn.com/2006/WORLD/europe/09/14/ukraine... http://www.cnn.com/SPECIALS/1999/nato/ http://www.mapsofworld.com/nato-members-map.htm http://europe.newsweek.com/should-european-union-h... http://www.nytimes.com/2014/03/27/world/europe/eur... http://www.nytimes.com/2016/05/13/world/europe/rus... http://www.reuters.com/article/us-eu-defence-idUSK... http://yournewswire.com/european-union-eu-army-201...